Các phương pháp xác định độ xù lông của sợi.

Phương pháp xác định độ xù lông của sợi

* Phương pháp cảm quan:
Sợi có thể được phân cấp theo độ xù lông bằng cách so sánh ngoại quan của chúng. Có thể dễ dàng so sánh một cách tương đối độ xù lông của hai loại sợi bằng cách so sánh hai ống sợi đầy. Cũng có thể quấn sợi lên bảng đen và so sánh với bảng đen chuẩn cấp độ xù lông và đánh gía cấp của sợi.

* Phương pháp quang học:
Trước khi có những dụng cụ đo, độ xù lông của sợi được đo bằng cách quan sát sợi dưới kính hiển vi. Hình ảnh của sợi được chiếu lên màn ảnh , và người ta đếm số xơ và vòng sơ thòi ra khỏi bề mặt một đọan dài sợi. Chiều dài của đoạn xơ thòi ra cũng được đo nhờ vào một thước micrometre gắn ở thị kính. Qua đó xác định được tổng chiều dài của xơ lông trên một đơn vị chiều dài.
Phương pháp này cho kết quả độ xù lông theo chiều dài của của đầu xơ. Xác định trên 50-100 mẫu sợi và tính độ xù lông trung bình. Khó khăn chính là phương pháp này việc xác định ranh giới của đầu xơ này với đầu xơ khác.Độ biến động về độ xù lông trong một ống sợi và giữa các ống sợi là khá lớn. Do đó để có thể có kết quả tương đối chính xác thì phải kiểm tra ở số lượng lớn mẫu thử. Và như thế sẽ mất rất nhiều thời gian.

* Phương pháp quang điện:

- Thiết bị thí nghiệm phân tích độ xù lông của sợi:

Một đầu đo có gắn tế bào quang điện đặt ở sát sợi để đếm số điểm ngắt do các xơ thòi ra. Đầu đo được đặt cách trong phạm vi 1-10mm đến bề mặt sợi cho phép đo độ dài của các đầu xơ trên đọan sợi di chuyển liên tục. Trục đưa sợi có tốc độ có thể điều khiển bằng điện tử từ 50-300m/ph.Máy sẽ vẽ ra một biểu đồ liên tục biểu thị độ xù lông của sợi.Dụng cụ này có thể xác định độ xù lông trên những đọan dài 3mm,và có thể phát hiện được những cọc sợi có độ xù lông lớn.

- Thiết bị đo :
Thiết bị đo độ không đều sợi có một bộ phận để đo độ xù lông của sợi. Vùng đo gồm các tia sáng song song đồng nhất phát ra từ một nguồn ánh sáng hồng ngọai.Anh sáng từ các đầu xơ thòi ra của sợi đến bộ cảm biến quang học sẽ được biến đổi thành tín hiệu điện tử. Phần thân sợi biến thành vùng tối không đo được. Phần xơ thòi ra sáng và phần ánh sáng phản chiếu từ những phần xơ này sẽ được đo. Độ xù lông được đo ở đây là tổng chiều dài đo bằng cm của các xơ thò ra và được gọi là chỉ số độ xù lông. Chỉ số độ xù lông bằng 4 nghĩa là tổng chiều dài xơ thòi ra trên 1cm chiều dài sợi là 4cm. Zellweger đã đưa ra định kỳ các tiêu chuẩn Uster về độ xù lông dựa trên các khảo sát ở các nhà máy sản xuất trên tòan thế giới. Phương pháp này có ưu điểm là cung cấp được một chỉ số đặc trưng cho độ xù lông của sợi nhung nó lại có hạn chế không cung cấp được các số liệu về các lọai xơ dài và xơ ngắn một cách riêng biệt.Vì vậy có thể có trường hợp hai lọai sợi có cùng chỉ số độ xù lông nhưng lọai sợi này có tỷ số xơ dài thòi ra ngòai nhiều hơn sợi kia.

* Phương pháp khối lượng :
Sự chênh lệch khối lượng sợi trước và sau khi đốt lông cho biết khối lượng của tòan bộ đầu xơ và do đó xác định được độ xù lông của sợi. Nhược điểm của phương pháp này là phải đốt lông lượng lớn sợi mới có thể tính tóan chính xác.Hơn nữa , việc đốt lông không thể lọai bỏ hết hòan tòan các đầu xơ thòi ra nhất là các xơ ngắn.Do đó độ chính xác của phương pháp này thấp.

Nguồn: phanviendetmay

Bình chọn tin tức

Bình chọn tin tức: (1.0 / 2 đánh giá)

Top

   (0)